Saturday, June 19, 2021

Tùy bút: VÀI DÒNG VỀ CHA




















 Tuỳ Bút: VÀI DÒNG VỀ CHA


Ba tôi sinh trưởng tại thị xã Long Xuyên, ngày nay là thành phố Long Xuyên, thuộc tỉnh An Giang, miền Tây Nam phần. Thân phụ của Ba, tức Ông Nội tôi, làm nghề giáo và đã cho xây dựng nhiều trường học ở vùng quê, do đó Nội tôi cũng là Thầy giáo của Ba tôi.


Lớn lên trong thời loạn ly của đất nước. Và chính bản thân Ba tôi cũng muốn làm một điều gì đó có ích cho quê hương xứ sở, nên hết bậc trung học, Ông ghi danh vào trường Võ Bị Đà Lạt bắt đầu nghiệp kiếm cung. Khoá của Ba là khoá 16, cũng được xem như khoá đầu đàn trong thời kỳ thay đổi nền giáo huấn của quân trường Đà Lạt lấy theo tiêu chuẩn West Point của Hoa Kỳ. Sinh viên Sĩ quan được huấn luyện trong bốn năm với Văn lẫn Võ, thay vì hai năm như trước đây, và ra trường với tấm bằng Cử nhân. Sau bốn năm mài vùi kinh sử ở quân trường Võ Bị với văn hoá và quân sự, Ba cùng những bạn đồng khoá ra trường và được đưa đi khắp bốn vùng chiến thuật. Thân phụ tôi lúc bấy giờ về với Sư đoàn 23 Bộ binh. Khi mới về nhận nhiệm vụ, những quân nhân thâm niên có vẻ không phục vì cái ông quan chỉ huy mặt búng ra sữa. Nhưng với tài chỉ huy, sự gan dạ, mưu lược, hoà đồng và tình thương yêu đồng đội, thuộc cấp, lính tráng như người thân trong gia đình đã lần hồi chinh phục được những quân nhân già lẫn trẻ. Ông đã từng hành quân khắp nơi ở vùng Một, Hai, và có nhiều trận đụng độ ác liệt với địch quân. Trong một lần hành quân, Ba cùng đồng đội đã lọt vào ổ phục kích của Việt Cộng. Ông đã chỉ huy quân lính chống trả quyết liệt và tiêu diệt gần như toàn bộ binh lính đối phương, nhưng trận này, Ba đã dính thương. Một viên đạn quân thù đã ghim vào thân thể Ông và đi vào lá gan. Ba bị thương rất nặng, tưởng đã phải hy sinh. Bây giờ ở ngay vùng bụng vẫn còn chằn chịt những vết thẹo do bị thương, mổ, may vá, mà hồi nhỏ không biết tôi thường hay nói rằng Ba đẻ tôi chớ không phải Mẹ. Trong làn mưa đạn, những người lính thuộc hạ đã can trường chống trả và cứu được Ba. Nếu những người lính ấy không quay lại và đem Ông ra khỏi vòng lửa đạn, có lẻ Ba đã hy sinh ngoài chiến trường. Sau đó Ông được trực thăng đưa về Quân Y Viện ở Buôn Mê Thuột để chữa trị. Sau lần bị thương này, Ông không thể tác chiến được nữa, và được điều về làm Giám đốc Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận, cùng với nhiều lần thay đổi nhiệm sở theo tình hình lúc bấy giờ. Trong lần được điều về Nha Trang thì tôi chào đời. Cũng xin nói thêm là, sau khi bị thương và về hậu cứ, Ba và Mẹ tôi đã kết hôn tại thành phố Sàigòn hoa lệ. Sau khi tôi chào đời không lâu thì Ông nhận được sự vụ lệnh về Saigon. Thế là tôi cùng Mẹ theo chân Ông lên máy bay vào Saigon và Ba đã làm việc tại Cát Lái. Những năm đầu của thập niên 70, Ông xin về quê và được cho về quận Chợ Mới, thuộc tỉnh An Giang, rồi về Tiểu khu An Giang không lâu sau đó cho đến ngày sập tiệm. Cấp bậc cuối cùng của Ba tôi là Thiếu tá, Tham mưu phó Hành Quân.


Sau tháng Tư, 1975, Ba tôi cũng như bao Quân Cán Chính của Việt Nam Cộng Hoà đã được kêu gọi ra trình diện để đi "học tập cải tạo" và mang thức ăn cho mười ngày, vì chỉ đi "học" vỏn vẹn có mười ngày. Nhưng tất cả đã bị lừa. Tất cả đã trở thành những người tù khổ sai như thời phong kiến dưới mỹ từ "học tập cải tạo". Ba tôi khi ấy chỉ mới ngoài ba mươi, hay nói đúng hơn là ở tuổi ba mươi bốn. Từ một người cường tráng, sau nhiều năm "được" "học tập cải tạo" chỉ còn xương bọc da, mà lần đầu tiên, 1979, tôi gặp lại Ba sau cái ngày oan nghiệt ấy đã không tài nào nhận ra được. Mười năm dài đằng đẳng nơi đất Bắc với những nhục hình, những sự trả thù tàn bạo của bên thắng cuộc, những tủi nhục đắng cay, Ba đã được về đoàn tụ với gia đình trong một bộ dạng ốm tong ốm teo như một bộ xương biết di chuyển.

 Càng lớn tuổi, nhiều căn bệnh trong người Ba càng xuất hiện, hậu quả của những năm tháng lao tù khổ sai nơi đất Bắc, nhưng nhờ nên y học tân tiến của Hoa Kỳ, những căn bệnh đã được chữa khỏi. Giờ đây, Ba đã gần tám mươi, nhìn Ba ngày càng già đi, mắt mờ, tay yếu, đi lại chậm chạp hơn xưa, lòng tôi oặn thắt. Chỉ biết cầu mong sao cho Ba luôn được nhiều sức khoẻ để an hưởng tuổi già.

 Ba đã từng nói với tôi rằng, nếu sau này Ba trăm tuổi, về với Ông Bà Tổ tiên, nhớ đừng nên phủ cờ. Vì cờ chỉ phủ cho những quân nhân hy sinh ngoài mặt trận. Ba chưa làm tròn bổn phận với quê hương đất nước, hơn nữa đâu phải hy sinh vì nhiệm vụ đâu mà phủ cờ, và Ba cũng muốn ra đi lặng lẽ như nhiều vị Tướng Tá đã từng. Nghe Ba nói mà tôi chỉ thầm váy cho ngày ấy đừng đến, nhưng điều đó chỉ là mơ ước thôi, vì đã là qui luật của tạo hoá thì ai cũng phải đi qua. Chỉ mong sao cho Ba luôn vui khoẻ để bù lại thời trai trẻ tốn nhiều máu xương.

 Quốc Thái


 Viết cho Cha già dấu yêu nhân ngày Lễ Cha và ngày Quân Lực 19 tháng Sáu

No comments:

Post a Comment